Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Nguyệt cầm của Xuân Diệu mang đến bài văn mẫu siêu hay đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi. Thông qua phân tích Nguyệt cầm này các bạn có thêm nhiều nguồn tư liệu học tập, rèn luyện kỹ năng phân tích bài thơ hay.
Phân tích Nguyệt cầm của Xuân Diệu giúp chúng ta cảm nhận được sự giao cảm giữa hương sắc và thanh âm, giữa đất trời và cỏ cây, giữa vũ trụ và con người, giữa trần gian và âm cảnh. Vậy sau đây là bài văn mẫu hay nhất mời các bạn cùng đón đọc. Bên cạnh đó các bạn xem thêm phân tích Trao duyên.
Phân tích Nguyệt cầm của Xuân Diệu
Sinh thời, Xuân Diệu từng viết: Tôi có cái mà người ta gọi là “tâm hồn”, cái gì đó mà nó là hướng toát ra tinh vi nhất, huyền bí nhất. Tâm hồn ấy là một tâm hồn thơ, luôn cảm nhận cuộc sống bằng mọi giác quan của mình.
Trong thơ Xuân Diệu có vai trò đặc biệt của cảm giác, cảm giác về cuộc sống xung quanh nhà thơ muôn hình muôn vẻ, có khi lại là những điều lớn lao trong tình yêu, trong lòng người, nhưng có khi là chỉ qua việc nghe “nguyệt cầm” nhà thơ đã tạo nên bao điều tinh tế. “Nguyệt cầm” là một trong những điều tinh tế ấy.
Thơ ca lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có ảnh hưởng nhiều của thi pháp thơ tượng trưng ở Pháp, tức là “thế giới thống nhất trong tình âm u, huyền bí của nó” hay “hương sắc và âm thanh trong không gian tương ứng với nhau” (Bôđơle) … Trong thơ Xuân Diệu, sự chuyển đổi cảm giác giữa âm thanh, màu sắc, hương vị … rất thuần thục, nhà thơ luôn tạo ra những kênh cảm giác giao thoa với nhau. “Nguyệt cầm” là bài thơ nói nhiều về sự giao thoa ấy. Nhà thơ đã chọn đây là bài thơ hay nhất của ông, “bài thơ thăng hoa từ đầu đến cuối”.
Không khí bao trùm lên toàn bộ bài thơ toát ra một vẻ lạnh, cái lạnh thấu suốt và thấm sâu, nó “nhập” vào hồn người từ những câu thơ đầu:
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân …”
“Trăng nhập”, hình như trăng ở đây là một linh hồn nhạy cảm, bơ vơ đang đi tìm chỗ tựa nương, linh hồn ấy nhập vào “dây cung nguyệt lạnh” càng làm cho cảm giác lạnh lẽo tăng thêm. Nhưng câu thơ không chỉ đơn giản là cảm giác về xúc giác, thị giác. Dường như nhà thơ đang định lý giải “tại sao lại gọi là đàn nguyệt?”.
Đây là loại đàn thuộc một loại tỳ bà dành cho phụ nữ chơi. Nhưng nếu như chỉ lý giải như thế câu thơ trở nên tầm thường quá, lắp ghép các sự vật hiện tượng lại với nhau để lý giải dòng cảm xúc thực không phải là ý định của nhà thơ. “Dây đàn” ở đây chính là sự biểu hiện của ánh trăng, trăng dường như hoá thân thành dây đàn, dây đàn thành âm sắc của trăng.
Với thủ pháp xáo trộn hình ảnh, biến cái thực là “dây đàn” thành cái ảo là “trăng”. Và ngược lại, Xuân Diệu muốn cấu tứ theo lối đồng nhất: cây đàn nguyệt là đàn trăng và trăng cũng là một cây đàn, nhà thơ dùng chất liệu ánh sáng và âm thanh để diễn tả âm sác của “đàn nguyệt”. Câu thơ tạo cho người đọc hai cách hiểu: nêu trăng là một cây đàn thì giọt đàn là giọt trăng, nếu đàn là trăng thì âm thanh là sắc trăng. Câu thơ hay đến mức kỳ diệu, đi trên ranh giới giữa cái thực và cái ảo, tạo nên cho dây đàn hai âm sắc: nóng và lạnh, trong đó lạnh là sở trường:
“Trăng thương, trăng nhổ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm”
Nhịp thơ 2/2/3 khiến ta liên tưởng đến những buồn thương mà đàn, trăng đã nói hộ thi sĩ, cứ nao nao, từng đợt, từng đợt như chực trào ra nơi khoé mắt. Âm thanh nguyệt cầm được cảm nhận sâu sắc chính bởi tâm hồn thi sĩ hòa nhập với tâm tình nghệ sĩ. Hai câu thơ như tách ra thành những chùm ba hợp âm. Chính vì có trăng nhập vào đàn nên âm sắc rung lên vừa là âm, vừa là sắc. Mỗi cặp “trăng thương, trăng nhớ, trăng ngần” là một nốt đàn. “Đàn buồn, đàn lặng, đàn chậm” là sự thay đổi của nốt đàn, trên là trăng, dưới là đàn, trên là ánh sáng, dưới là âm thanh. Tất cả đều đạt đến sự tuyệt đối của âm sắc.
Các giai điệu “trăng – đàn”, “đàn – trăng” cứ lặp đi lặp lại dễ gảy cho ta cảm xúc buồn. Nếu như ở câu trên từ “ngần” đặt ở cuối câu là tiếng đàn dàn trải thì câu dưới từ “chậm” (thanh nặng) ở cuối câu tiếp theo từ “lặng” (thanh nặng) và “buồn” (thanh huyền) làm cho tiếng đàn như nghẹn lại, buồn thảm hơn. Những điệp khúc ấy cứ xoáy vào ta, da diết lạ kỳ. Tiếng đàn là sự đồng vọng của tiếng hồn bay tới vầng trăng, cái vầng trăng vẫn có tự muôn đời: trăng quá khứ, trăng của thực tại và trăng của những áng thơ ấy …
Chính những ảo ảnh cảm giác mà ta cảm nhận được đã tạo nên sự so sánh: “mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân”. Giọt ở đây là giọt đàn, cả bảy chữ là sự chuyển đổi của các kênh cảm giác: lấy cái hữu hình hoá cái vô hình: nếu như “giọt” là đơn vị của chất lỏng thì “giọt rơi tàn như lệ ngân” lại là giọt ánh sáng, giọt âm thanh. “Rơi” không chỉ nghe thấy tiếng vang ngân mà còn thây được cả ánh sáng “tàn”, đem so sánh với “lệ” là giọt chất lỏng tạo cho “giọt” có cấu trúc muôn hình thể: âm thanh biến thành ánh sáng, ý thơ lung linh, chính tâm hồn tinh tế của thi nhân đã “kết” tiếng đàn kia từ âm, sắc thành giọt lỏng.
Cái phi lý tính ấy ta đã gặp nhiều trong thơ Xuân Diệu, tăng sức gợi cảm cho bài thơ. Có thể nói, Xuân Diệu đã đưa cái trong của tiếng đàn lên đến đỉnh cao của nghệ thuật, của cái đẹp là “thuỷ ngân”, đồng thời cũng đưa cái buồn của tiếng đàn xuống đến tuyệt đôi. Âm thanh tích tụ mối sầu ở cảnh, ở tình kết thành giọt rơi giữa đêm vắng, giọt âm thanh cứ chơi vơi giữa lòng vũ trụ, giữa lòng thi sĩ. Dư âm của nó cứ lay động nhẹ trái tim nhà thơ, cứ đọng dần, đọng dần cho đầy tâm hồn cô vắng. So với tiếng đàn trong thơ Nguyễn Du xưa, tiếng đàn của Xuân Diệu buồn một nỗi buồn hết sức hiện đại, tất cả đều ở mức tinh tế nhất.
Chợt một cảm giác ghê sợ xâm chiếm dần nỗi buồn miên man khi bóng sáng lung linh bỗng rung mình:
“Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh
Lung linh bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”.
Vẫn tiếp tục là cảnh, là tiếng đàn cất lên trong đêm khuya mơ hồ, thanh vắng. Câu thơ vẫn kết cấu theo chùm ba hợp âm nhưng ở đây là sự ngưng đọng ở cảnh: “Mây trắng, trời trong, đêm thuỷ tinh”. Đó là sản phẩm của sự tương giao, “đêm thuỷ tinh” là sự sáng tạo, cụ thể hoá cái vô hình thành cái hữu hình có thể sờ nắm được.
Câu thơ không hề nói đến hình ảnh con người, cảnh trong sạch quá đỗi, nỗi buồn lan toả trong không gian thanh sáng quá thành ra như không có gì lấp vào được. Không vợi đi mà cứ tăng lên. Không có con người, không một làn gió, không có âm thanh nào khác ngoài tiếng đàn, càng không có hơi ấm của cuộc sống. Ngước lên bầu trời cao trong vắt, đối diện với tâm hồn: Mây không phải không có mà là đi vắng, nghĩa là mọi đêm vẫn có nhưng đêm nay thì không, sự hẫng hụt như tăng lên. Không gian trong đến choáng ngợp, giữa âm thanh và màu sắc có sự tương đồng. Chính tiếng đàn thánh thót mà trầm lắng, nhanh dồn dập mà chậm rãi làm cho ánh trăng kia như run lên trong không gian quá rộng, quá trong:
“Linh lung bóng sáng bỗng rung mình”
Câu thơ có sự chuyển đổi cảm giác cực mạnh, nếu “lung linh” là ánh sáng được cảm nhận bằng thị giác thì “lung linh” có cả xúc giác, cảm giác ghê sợ, rợn, lạnh ở phía sau, làm cho ta rùng mình. Dường như ngoài đêm ra, bóng sáng là thính giả duy nhất của đêm nhạc, nghe nhạc vì rung động nên rùng mình.
“Bóng sáng” là hư ảo nhưng tác giả thấy có một bóng sáng hiện lên trong đêm đó, cả cái vô hình cũng trở nên rung động, chứng tỏ sự tác động mạnh mẽ của âm thanh không chỉ làm cho con người xúc động mà còn làm cho cả những cái hư ảo, tưởng như không tồn tại cũng rung mình. Hai vần “inh – ung” đặt trong một câu thơ dễ gây cho ta cũng có cảm giác “rung rinh” ấy. “Bỗng rùng mình” chuẩn bị cho ý thơ dưới:
“Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh”
Dường như câu thơ nói rõ thêm nguyên nhân làm cho ta nghe thấy tiếng đàn buồn, thì ra thi nhân không quá thả hồn mình vào và bay bổng theo tiếng đàn mà quên đi cuộc sống con người, Xuân Diệu đang hướng tới con người. Hình như tiếng đàn ấy rất hợp với tiếng lòng thi sĩ, khi hai tiếng ấy gặp nhau có sức gợi hình ảnh rất lớn, dường như tiếng ấy hợp với tình này.
Tiếng đàn buồn rơi trong đêm trăng làm cho thi sĩ liên tưởng đến những con người bạc mệnh, những con người ấy cũng đã từng sống trong cảnh buồn thương, rơi rụng. Số phận của họ mỏng manh như tiếng đàn nhưng không dễ dàng làm cho người đời quên đi mà ngược lại, luôn in dấu trong cảnh vật, con người. Họ là ai? “Vì nghe nương tử trong câu hát”. Thì ra chỉ một bản đàn, qua những câu hát buồn lặng ấy đã tái hiện cả một kiếp người bạc mệnh. Họ là những người phụ nữ tài sắc nhưng “hồng nhan đa truân”, cuộc đời họ bất hạnh, buồn thảm như tiếng đàn của họ.
Không phải ngẫu nhiên mà những người phụ nữ tài sắc thường là những người giỏi cầm thơ, nàng Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đánh đàn biểu hiện nỗi lòng mình đến độ “Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Còn “nương tử” trong bài thơ này có lẽ là nàng Chiêu Quân chăng? Có phải bản nhạc mà nhà thơ nghe là đang hát về nàng hay nghe nhạc mà tác giả liên tưởng đến nàng? Câu thơ có chiều sâu của thời gian, ở hiện tại nhà thơ nhìn về quá khứ, không gian được mở rộng, dường như tiếng đàn là nơi thu hút nhất những cảm xúc tài hoa: người tài hoa, âm sắc tài hoa, tất cả chơi vơi trong dòng âm thanh lơ lửng trong không gian. Phải chăng quá khứ đang biểu hiện hiện tại? Cảm giác về âm, sắc ấy khiến cho ánh trăng cũng rung mình thương xót cho kiếp người xấu số. Cái còn lại của đời người ấy là tinh anh của người đẹp.
Câu thơ rất “Tây” của Xuân Diệu đã tái hiện rất đúng cuộc đời người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh Chiêu Quân. Đêm rằm chết dần, tàn dần theo nước xanh hay người con gái ấy gói cuộc đời mình lại trong tiếng đàn, câu hát rồi để mặc chảy trôi vĩnh viễn theo dòng nước xanh – dòng đời hoang dại? Câu thơ có sự lụi tàn của cái đẹp, có cái vô tình của tạo hoá, có cái nhẫn tâm của cuộc đời. Bạc bẽo lắm thay ! Cái sự thật phù phàng ấy đã bao lần được nói tới trong văn thơ trung đại, nay đến lượt Xuân Diệu.
Chính điều đó giữ ông lại với tâm hồn Việt Nam. Bao nhiêu tình cảm tiếc thương cho đời người tài hoa bạc mệnh biểu hiện bằng hình ảnh thơ phũ phàng, nhà thơ như muốn nói đến điều tương như vô lý mà lại là sự thực ở đời. Dù sao thì ta cũng thấy nhà thơ đã nhận ra điều đó, giúp ta hiểu biết thêm về người xưa, về âm thanh tài hoa của “Nguyệt cầm” . Nghĩ thế những tưởng cho lòng mình ấm lại, tìm thấy chút gì ấm áp, nhưng trời ơi, tiếng đàn buồn lặng lại bị ánh trăng lạnh lẽo lấn át đi, không gian tràn ngập tiếng đàn vẫn ám ảnh và đập mạnh vào giác quan của nhà thơ, của ta, cảm giác lạnh vẫn cứ tăng lên:
“Thu lạnh càng thêm nguyệt tơ ngời
… Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người”.
Không gian của bài thơ ngày càng khuya khoắt, thanh vắng hơn, dường như cái lạnh của đêm thu càng làm tăng thêm độ ngời sáng của trăng. Tiếng đàn không chỉ dừng lại ở mức độ tạo nên cảm xúc buồn mà chuyển thành “ghê”, tức là sợ hãi, mặc cảm như lùi xa. Cả bài thơ có đến ba từ “lạnh” nhưng phải đến từ thứ ba do được ngăn cách quyết liệt bởi hai dấu phẩy mới thấy hết được cái lạnh toát ra mạnh mẽ nhất; cách chuyển đổi cảm giác từ thính giác sang xúc giác đến độ như thế đã là tuyệt đối! Cái lạnh lọc trong ánh trăng, rùng mình làm người đọc cũng rợn người.
Tiếng kêu “trời ơi” không kìm nén được đã cất lên như sự chứng minh cho sự không dừng được của cảm xúc, như tiếng kêu thảng thốt của một tâm hồn mềm yêu trước cái lạnh dễ sợ của đêm nhạc, trước ký ức buồn thương. Cái rùng mình được diễn tả bằng nhịp ngắt từ “lạnh” riêng thành một nhịp, đó là sự tận cùng của cảm nhận. Thi nhân đã thu lòng mình vào khí thu lạnh lẽo, ánh trăng tỏ ngời và nỗi niềm uất hận từ tiếng đàn, những nỗi niềm ấy còn tồn tại trong cả sỏi đá.
Câu thơ đảo từ “long lanh” lên đầu cho ta thấy ánh sáng phát ra từ tiếng đàn, đọng vào sỏi đá. Cái cảm giác xù xì, trầm đục ấy lẽ ra phải được cảm nhận bằng thị giác nay “vang vọng” thì đã chuyển sang thính giác. Tiếng đàn đẹp và hay nay lại là tiếng vang của những mối hận trong lòng, những mối hận đã lên tiếng. Thế mới biết sự nhập tâm của người chơi đàn và người nghe đàn đạt đến mức độ như thế nào ! Trăng đêm thu trong “Nguyệt cầm” nhớ trăng bến Tầm Dương, Xuân Diệu nhớ đến Bạch Cư Dị.
Câu thơ đưa ta về bến Tầm Dương, với cảnh và tình ngày xưa, với cùng một lứa bên trời lận đận, để cảm nhận tiếng đàn ở mức độ tinh vi nhất: cả trăng, nhạc và ánh sáng … hoà vào nhau. Nhà thơ đã nghe tiếng đàn bằng toàn bộ sự sống của mình. Còn ta, ta nghe tiếng đàn thơ bằng các giác quan của mình. Tất cả nằm trong sự cộng hưởng đến tuyệt vời. Thế mới biết năng lực tạo hình bằng âm thanh của Xuân Diệu đạt đến mức tài hoa như thế nào.
Tiếng đàn về đêm khuya nghe càng rõ, càng dồn dập:
“Bốn bề ánh nhạc biển pha lê …
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”
Hình ảnh thơ được cấu tạo từ sự tương giao, sự chuyển đổi của các giác quan: âm nhạc toả lan trong không gian mang lại cả màu sắc, hình khối. Ta không chỉ nghe thấy mà còn cảm thấy trong cái rùng mình, sờ nắm thấy từ chất liệu quý “pha lê”.
Không gian bao quanh, tiếng đàn hoá thành đại dương chứa âm thanh, mỗi giọt âm thanh vừa là trăng, là bạc, là pha lê. Câu thơ như vút cao lên. Tuy nhiên, từ đầu tới giờ đêm nhạc chỉ gây cho ta cảm giác ớn lạnh thì biển pha lê kia cũng chỉ là một bể sầu vô định, mênh mông, choáng ngợp mà trên đó có một linh hồn – chiếc đảo đang bơ vơ. Hai từ “bốn bề” đặt ở đầu câu thứ nhất lặp lại ở cuối câu thứ hai vừa đóng khung cuộc đời con người trong đó lại vừa mở ra một không gian vô tận mà ở đó con người thật nhỏ bé, khó xác định, cứ bị ngợp dần.
Có thể nói mặc cảm cô đơn bế tắc luôn ám ảnh các nhà thơ mới, nhất là Xuân Diệu. Ông như một “con chim hoạ mi hoan hỉ hót trong bóng đêm những nỗi cô đơn của mình bằng những tiếng ngọt ngào” (Shelley). Hình ảnh “chiếc đảo hồn tôi … “ là nỗi lòng tự bạch của t thi sĩ nói riêng và một tầng lớp lúc bấy giờ. Tiếng “rợn” như một cái rùng mình trước sự thật ấy.
Đây không phải là lần duy nhất Xuân Diệu cảm thấy choáng váng vì cô đơn. Ông khát khao giao cảm hết mình với đời nhưng những gì mà ông nhận lại thì “chưa đủ” nên càng thấy cô đơn, mà càng cô đơn ông càng giao cảm, càng đi sâu vào những điều tinh tế, ông đã thạo dò la tâm cảnh, tâm tình. Khát khao ấy biểu hiện rõ nét trong hai câu thơ:
“Chỉ biển trời xanh, chẳng bên trời
Mắt nhìn thêm rợn ánh khơi vơi”
(Buồn trăng)
Cái vô biên, bất tận của vũ trụ luôn tác động đến cảm giác, cảm xúc của thi sĩ, và khi ấy phương thức giãi bày, bộc lộ tuyệt vời nhất lại là thơ.
Toàn bài im ắng và lặng lẽ. Cái tĩnh mịch như lên cao độ ở hai câu kết:“
Sương bạc làm thinh khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”
Không còn gì ngoài tiếng đàn đang thả ra từng giọt ảm thanh não nề. Sương bạc, đêm khuya là thính giả của đêm nhạc cũng lặng thinh và nín thơ và rồi chợt nhận ra rằng sao Khuê đang bị mờ dần bởi mối sầu trong nhạc, nhà thơ ngước nhìn lên. Lúc này giọng đàn sầu não đã chiếm lĩnh cả bên trong những vì tinh tú, tâm sự trong nhạc đã sâu sắc tuyệt đối. Vũ trụ đã nghiêng mình, lòng người đã bị chinh phục !.
Bài thơ kết thúc trong lúc cả vũ trụ bị thu hút bởi âm thanh Nguyệt cầm. Chỉ còn những sợi ánh sáng trăng, giọt âm thanh trăng như vương lại, đọng trên trang thơ.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Nguyệt Cầm Nguyệt Cầm của Xuân Diệu của Neu-edutop.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.