Cảm nhận về nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng của Nguyễn Du gồm 6 bài văn mẫu hay, ấn tượng nhất. Thông qua 6 bài văn mẫu cảm nhận Từ Hải giúp các em học sinh lớp 10 có nhiều ý mới, ý hay, ý đẹp khi làm văn. Đồng thời giúp cho các em có thêm vốn từ phong phú khi diễn đạt.
Từ Hải là người có chí khí anh hùng, hoài bão lớn lao cùng bản lĩnh phi thường. Là biểu tượng về khát vọng tự do và lẽ công bằng. Bên cạnh cảm nhận nhân vật Từ Hải các bạn xem thêm: phân tích Chí khí anh hùng, phân tích nhân vật Từ Hải. Vậy dưới đây là 6 bài cảm nhận nhân vật Từ Hải hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi và tải tại đây.
Dàn ý cảm nhận nhân vật Từ Hải
I. Mở bài
Ngòi bút Nguyễn Du tài tình khi khắc họa những nhân vật trong Truyện Kiều luôn chân thật, sống động, gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Nhân vật vừa có nét chung, vừa có nét riêng nổi bật, đặc biệt là về tâm lí, tính cách. Chỉ cần một lời thơ cô đọng, tác giả đã làm lộ ngay thần thái của nhân vật.
Đoạn Chí khí anh hùng – Từ Hải ra đi lập sự nghiệp, giã từ Thúy Kiều – đã thể hiện sắc nét nghệ thuật miêu tả nhân vật đó của Nguyễn Du.
II. Thân bài
A. Hình ảnh Từ Hải
Từ Hải đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chỉ là mục đích cao để hướng tới, khi là nghị lực để đạt tới mục đích.
Ở con người Từ Hải, nỗi khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một sức mạnh của thiên nhiên, không gì có thể kiềm chế nổi. Từ Hải đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa, chợt động lòng bốn phương. Thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời bể mênh mang và lập tức ở vào tư thế một mình với thanh gươm yên ngựa sẵn sàng lên đường. Động lòng bốn phương là “động bụng nghĩ đến bốn phương” (Tàn Đà). Nói cụ thể hơn là thấy trong lòng cái chí tung hoành ở bốn phương đang thúc giục, kêu gọi. Chỉ hai câu đầu, ta thấy Từ Hải không phải là con người tầm thường, mà có tâm chí của bậc hào kiệt.
Không gian trong câu 3, 4 (trời bể mênh mang, lên đường thẳng rong) thể hiện chí khí anh hùng của Từ Hải: lên đường, một mình một ngựa, một thanh gươm!
B. Chí khí anh hùng của Từ Hải
Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt thể hiện rõ tính cách của nhân vật anh hùng này.
Con người có chí khí phi thường. Từ Hải là con người của sự nghiệp phi thường, không thể đắm mình mãi chốn khuê phòng. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào. Từ Hải thoắt đã động lòng bốn phương, tiếng gọi của sự nghiệp đã thức tỉnh chàng. Giờ đây sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, sự nghiệp chẳng những là ý nghĩa của sự sống, mà còn là điều kiện để thực hiện – nhưng ước ao mà người tri kỉ gửi gắm, trông cậy ở chàng. Họ vậy nên không chút bịn rịn, không có những lời than vãn lúc chia biệt. Thêm nữa, trong lời trách người tri ki chưa thoát khỏi thường tình nhi nữ, còn bao hàm cái ý khuyên Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để làm vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ thương của Kiều (Cánh hồng bay bỗng tuyệt vời – Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm) không chi có sự mong chờ người yêu xa cách, mà còn mong chờ cả sự nghiệp của Từ Hải.
Con người rất tự chủ và tự tin. Trước đây, ngay trong cảnh trần ai, Từ Hải ngang nhiên xem mình là anh hùng, tất cả sự nghiệp sau này như đã nắm chắc trong tay. Giờ đây xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, Từ Hải đã khẳng định, muộn thì cũng không qua một năm, sẽ nhất định trở về với cả một cơ đồ to lớn.
C. Khuynh hướng lí tưởng hoá nhân vật anh hùng Từ Hải
Từ Hải là nhân vật được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hóa. Trong đoạn trích này, qua từ ngữ, hình ảnh nghệ thuật miêu tả của tác giả, Từ Hải hiện ra với tính cách của con người phi thường.
Trượng phu là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt nói những quyết định dứt khoát của Từ Hải. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Chữ dứt áo trong câu Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách con người phi thường lúc chia biệt: người ở nắm áo, nhưng người đi cứ dứt áo ra đi.
Mặt khác, Từ Hải là con người phi thưởng, nên lúc ra đi cũng không thể ra đi như mọi người. Nguyễn Du nói rõ:
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Hơn nữa, hình ảnh Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi cho thấy chí lớn của một bậc hào kiệt. Từ Hải ra đi chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng vẫn cả quyết ngày trở về sẽ có mười vạn tinh binh. Làm thế nào mà có được như thế. Từ Hải không nói. nhưng Kiều thì tin và người đọc cũng không thấy phải băn khoăn.
III. Kết bài
Hình ảnh người anh hùng Từ Hải, chỉ khi của người anh hùng Từ Hải hiện rõ trong đoạn thơ.
Nguyễn Du đã thành công trong việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nghệ thuật miêu tả theo khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng lí tưởng, phi thường với những nét thật cụ thể, sinh động.
Cảm nhận về nhân vật Từ Hải – Mẫu 1
Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng Kiều, Từ thực sự là một người đa tình. Song dẫu đa tình, Từ không quên mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh phúc, chợt “động lòng bốn phương”, thế là toàn bộ tâm trí hướng về “trời bể mênh mang”, với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng.
Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải.
Tác giả dựng lên hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì phi lôgíc không? Không, vì hai chữ “thẳng riong” có người giải thích là “vội lời”, chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lí. Vậy có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay Thúc Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hi vọng gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là khác hẳn nhau.
Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay, thấy Kiều nói:
Nàng rằng:
“Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Từ Hải đã đáp lại rằng:
Từ rằng:
“Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình”.
Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong danh dự:
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia”.
Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của người đẹp.
Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống:
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!
Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ đồ lớn.
Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.
Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhớ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn phương theo Tản Đà là “động bụng nghĩ đến bốn phương” cho thấy Từ Hải “không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong Quyết lời dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng trượng phu trong lúc chia biệt.
Về hình ảnh, “Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi” là một hình ảnh so sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn. Không chỉ thế, trong câu thơ còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thoả chí tung hoành “diễn tả một cách khoái trá giây lát con người phi thường rời khỏi nơi tiễn biệt”. Nói thế không có nghĩa là Từ Hải không buồn khi xa Thuý Kiều mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh: “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của chàng, của một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến.
Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt. Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh “bốn bể không nhà” nhưng vẫn nguyện đi theo. Chữ “tòng” không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho giáo rằng phận nữ nhi phải “xuất giá tòng phu” mà còn bao hàm ý thức sẻ chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm vợ một người anh hùng. Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm đầu ý hợp, tri kỉ, tri âm.
Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải và khẳng định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ, tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.
Cảm nhận về nhân vật Từ Hải – Mẫu 2
Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải là ba nhân vật đã gắn bó với số phận và đời sống tình cảm của Thúy Kiều. Mối tình Kim – Kiều là mối tình đầu tuyệt đẹp giữa “Người quốc sắc, kẻ thiên tài” đã nặng tình thề nguyền ”Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”. Mối tình giữa Thúc Sinh và Thúy Kiều là quan hệ “Trước còn trăng gió sau ra đá vàng”. Từ Hải với Thúy Kiều đã gắn bó với nhau bằng mối tình tri kỷ giữa “trai anh hùng, gái thuyền quyên”. Những nhân vật ấy đã được thi hào Nguyễn Du thể hiện một cách tuyệt đẹp, làm cho cảm hứng nhân văn lung linh tỏa sáng trên những trang thơ “Truyện Kiều”.
Đọc đoạn thơ “Kiều gặp Từ Hải” qua nghệ thuật tả người của một ngòi bút thiên tài, qua nhân vật Từ Hải ta cảm nhận được ước mơ về tự do và công lý trong xã hội phong kiến.
Lúc bấy giờ Kiều đang sống ở Châu Thai trong tay Bạc Bà, Bạc Hạnh:
“Thoắt buôn về, thoắt bán đi,
Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!”
Trong cảnh ngộ ấy, “khách biên đình”, nơi biên ải xa xôi đã đến với Kiều. Đó là một đêm mùa thu “gió mát, trăng thanh”. Hai chữ “bỗng đâu” nói lên sự bất ngờ, đột ngột:
“Lầu thâu gió mát, trăng thanh,
Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi.”
Không phải là một văn nhân với tiếng “nhạc vàng”, với “cờ pha màu áo nhuộm non da trời” Cũng không phải là người “trăm nghìn đổ một trận cười khí không”. Mà là “một đấng anh hùng” có cốt cách phi thường:
”Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.”
Những ẩn dụ, những số đo ấy tuy mang tính chất ước lệ tượng trưng của thi pháp cổ, nhưng với cách ngắt nhịp 2/2/2 ở câu lục và 4/4 ở câu bát, giọng thơ trở nên mạnh mẽ đầy ấn tượng về một tướng mạo phi phàm, uy nghi. “Khách biên đình” có võ nghệ cao cường vô địch, có trí dũng “lược thao gồm tài”. Đó là một anh hùng xuất chúng:
“Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.”
Lai lịch bí mật của “khách” được hé lộ dần về họ, tên, quê quán, về chí khí “giang hồ của một khách cung kiếm, sống một cuộc đời tự do
“Đội trời đạp đất ở đời
Họ Từ, tên Hải vốn người Việt Đông
Giang hồ quen thói vẫy vùng,
Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.”
Nguyễn Du đã sử dụng một số từ Hán-Việt như: “đấng anh hào”, “Côn quyển”, ‘ thao”, “giang “vẫy vùng” để khắc họa tính cách anh hùng và khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải. Các phụ âm “đ” trong các lừ ngữ như: đường đường”, “đội trời, đạp đất”, “ở đời”, “Việt Đông”, làm cho giọng thơ vang lên hùng tráng, mạnh mẽ. Sau này khi Từ Công đã chết, Thúc Sinh còn nhắc lại đầy ngưỡng mộ:
“Đại vương tên Hải họ Từ,
Đánh quen trăm trận, sức dư muôn người.
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng,
Đại quân dồn đóng cõi đông…”
Có thể nói, Nguyễn Du đã dùng những từ ngữ, hình ánh tráng lệ nhất, giọng thơ hùng tráng nhất, để ca ngợi cốt cách phi thường, thói giang hồ tự do, chí khí anh hùng của Từ Hải.
Từ Hải còn là một anh hùng rất đa tình. Buổi gặp gỡ đầu tiên có thiếp danh trang trọng, nhiều tâm đắc tương tri: “cùng liếc… cùng ưa”. Người đẹp đã làm cho đấng anh hào phải xiêu lòng. Cũng là khoảnh khắc “ban đầu lưu luyến” của lứa đôi:
“Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
Hai bên cùng liếc, hai lòng cùng ưa.”
Cuộc đối thoại tại “lầu hồng” giữa anh hùng và giai nhân đã làm nổi bật thêm những nét đẹp trong tâm hồn Từ Hải. Đến “lầu hồng” gặp Kiều, Từ Hải không phải vì tình “trăng gió” mà là “tâm phúc tương cờ” đi tìm ” tri kỷ”. Vì vậy khi nghe người đẹp nói lên niềm hy vọng “‘Tấn Dương được thấy mây rồng cố phen”, nghe Kiều gửi gắm sự trông cậy chở che: “Rộng thương cỏ nội hoa hèn – Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau” thì Từ Hải “gật đầu” sung sướng:
“Một lời đã biết đến ta,
Muôn chung nghìn tứ, cũng là có nhau.”
Đó là một lời hứa như dao chém đá của trang anh hùng nghĩa hiệp. Chẳng cần dùng mưu kế như Thúc Sinh “rước về hãy tạm dấu nàng một nơi”, Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, thái độ xử lý rất đàng hoàng: ‘Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn”. Con người “giang hồ quen thói vẫy vùng”, từng “đánh quen trăm trận” ấy lại có một tình yêu rất lãng mạn, Từ Hải là ân nhân của Kiều đã làm thay đổi số phận của một gái thanh lâu:
“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng.”
Qua đoạn thơ “Kiều gặp Từ Hải”, ta càng thấy rõ nghệ thuật tả người của Nguyễn Du rất đặc sắc, độc đáo. Thi hào đã dành những câu chữ hay nhất, trang trọng nhất để khắc họa tính cách anh hùng phi thường, khát vọng tự do và đa tình lãng mạn của nhân vật Từ Hải. Từ giọng điệu đến ngôn từ đều trang trọng, cổ kính: nhân vật lung linh màu sắc huyền thoại sử thi.
Nhân vật Từ Hải tựa như một ánh hào quang chiếu qua một quãng đời ngắn ngủi của Thúy Kiều, nhưng đã để lại trong lòng người bao ấn tượng tốt đẹp . Chân dung anh hùng Từ Hải là một phương diện tuyệt đẹp về cảm hứng nhân văn của “Truyện Kiều”.
Cảm nhận về nhân vật Từ Hải – Mẫu 3
Chí khí anh hùng là đoạn trích nói về Từ Hải – một “anh hùng cái thế”, nhân vật thể hiện giấc mơ công lý của Nguyễn Du. Đoạn trích khắc họa hình ảnh Từ Hải với tính cách anh hùng chí khí phi thường, khát vọng tự do mãnh liệt.
Từ Hải là một anh hùng lí tưởng. Từ ngoại hình lời nói, đến hành động, tính cách và ngay cả cách tỏ tình của Từ Hải đều toát lên phẩm chất người anh hùng Tâm thế Từ Hải luôn thuộc về “bốn phương”, chàng là người của “trời bể mênh mang” và sẵn sàng vào tư thế “thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”. Mọi việc đến nhanh, dồn dập và dứt khoát. Khẩu khí của Từ Hải khi từ biệt Kiều rõ là của bậc trượng phu chí lớn: đàng hoàng, đĩnh đạc có hào khí.
Từ Hải trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ đơn giản là một tên tướng cướp: “Lúc ấy có một hảo hán tên Hải họ Từ, tự là Minh Sơn, có tính khoáng đạt rộng rãi, giàu sang coi nhẹ, tì thiếp coi thường, lại còn tinh cả lục thao tam lược, nối danh cái thế anh hùng, trước cũng theo nghề nghiên bút, thi hỏng mấy giang hồ hiệp khách” (Trích hồi 17). “Phu nhân (Thúy Kiều) khuyên chàng nên cấm binh sĩ không được đốt nhà cướp của, gian dâm phụ nữ, giết hại trẻ già. Minh Sơn nghe theo hết thảy, mỗi khi đại binh tới đâu, đều hạ lệnh cấm nghiêm, địa phương không bị hại đều là nhờ ơn của người đàn bà ấy vậy” (Trích hồi 18).
Đoạn trích trong Truyện Kiều so với Kim Vân Kiều truyện là hoàn toàn sáng tạo. Nguyễn Du đã lược bỏ đi những chi tiết tả thực một cách trần trụi, tầm thường, thay vào đó những cách tả ước lệ, ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh gợi tả, gợi cảm lớn, giọng điệu đầy hào sảng… tất cả bộc lộ khuynh hướng lý tưởng hóa trong việc xây dựng nhân vật Từ Hải.
Cảm nhận Từ Hải – Mẫu 4
Nếu nhắc đến những con người có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam thì ắt không thể thiếu Nguyễn Du – đại thi hào đã mang tên tuổi nước ta lên tầm quốc tế. Xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại nhiều tuyệt tác văn học được viết bằng cả chữ Hán và đặc biệt là chữ Nôm, với ví dụ tiêu biểu là “Truyện Kiều”. “Truyện Kiều” không chỉ thành công trong việc khắc họa số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời nêu cao khát vọng vươn tới những điều tươi đẹp hơn của nhân dân Việt Nam qua nhân vật Thúy Kiều và cuộc hành trình đầy gian truân của nàng; mà còn thể hiện rõ thái độ khẳng định, ngợi ca đối với người anh hùng của Nguyễn Du. Chúng ta có thể thấy rõ được hình ảnh người anh hùng đẹp đẽ này qua nhân vật Từ hải, tiêu biểu là ở đoạn trích “Chí khí anh hùng”. Bên canh đoạn miêu tả về ngoại hình của Từ thì “Chí khí anh hùng” chính là những dòng thơ hay nhất mà Nguyễn Du dành cho nhân vật này.
Nguyễn Du (1765-1820) sinh ra và lớn lên trong một thời kì đầy biến động – giang sơn nhiều lần đổi chủ, chế độ phong kiến dần suy tàn, dẫn tới nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân. Điều này đã giúp Nguyễn Du hình thành những suy nghĩ về cuộc đời và thế thái nhân sinh và dần ảnh hưởng tới phong thái văn chương của ông. Bên cạnh đó, xuất thân từ gia đình với nhiều truyền thống văn hóa và truyền thống hiếu học, ông đã có điều kiện dùi mài kinh sử và mở rộng vốn hiểu biết về văn hóa lẫn văn học của bản thân. Tất cả cùng với những biến cố lớn ông phải trải qua trong cuộc đời mình đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho các sáng tác văn học của ông, điều đó được đặc biệt thể hiện ở “Truyện Kiều”. Bên cạnh hình ảnh những kiếp người nhỏ bé, khổ đau mà Nguyễn Du đã hết sức nâng vực trong tác phẩm này, chúng ta còn bắt gặp cả hình ảnh người anh hùng chứa đầy ước mơ của ông. Ở đoạn trích “Chí khí anh hùng”, nhân vật người anh hùng tái thế Từ Hải đã được Nguyễn Du đã xây dựng và ngợi ca với bao phẩm chất cao đẹp
Đoạn trích “Chí khí anh hùng” được đặt ở hoàn cảnh: sau khi Từ Hải cứu Kiều khỏi lầu xanh, hai người sống hạnh phúc được nửa năm thì Từ Hải đã từ biệt Thúy Kiều để ra đi lập sự nghiệp lớn. Đoạn trích bao gồm 18 câu (từ câu 2213 đến câu 2230) và có thể được phân thành ba phần – giới thiệu khái quát về Từ Hải, cuộc đối thoại giữa Từ Hải và Thúy Kiều, hình ảnh Từ Hải ra đi. Qua “Chí khí anh hùng” , tác giả đã không chỉ gửi gắm lí tưởng của mình mà cả ước mơ lãng mạn của ông lẫn những con người bị áp bức trong xã hội xưa vào hình tượng người anh hùng Từ Hải.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã viết:
“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”
Cụm từ “hương lửa đương nồng” ám chỉ cuộc sống vợ chồng Từ Hải – Thúy Kiều đang nồng ấm, tuy nhiên Từ Hải lại không thấy mãn nguyện với cuộc sống bấy giờ mà thầm khao khát một thứ gì đó lớn lao hơn ở “bốn phương” – khao khát được tung hoành nơi bốn bể, được ra đi để gây dựng sự nghiệp lớn của người trượng phu. Trong xã hội phong kiến, đã là nam nhi thì phải có chí vùng vẫy giữa trời cao đất rộng. “Trượng phụ” là cách gọi để thể hiện sự tôn trọng dành cho bậc anh hùng tái thế. Và xuyên suốt “Truyện Kiều”, Nguyễn Du chỉ dùng từ duy nhất với nhân vật Từ hải. Qua đó, ta đủ thấu hiểu tấm lòng của Nguyễn Du được đặt ở người anh hùng này là như thế nào. Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du, giấc mơ anh hùng, giấc mơ tự do và công lý. Cho nên Từ Hải là một người chí khí, một người siêu phàm. Con người ấy đến từ một giấc mơ và ở lại như một huyền thoại. Hiện diện trong “Truyện Kiều” như một nhân cách sử thi, Từ Hải đã làm nên những trang sôi động nhất, hào sảng nhất trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của “Đoạn Trường Tân Thanh”.
Sự quyết tâm ra đi vì nghĩa lớn của Từ Hải được thể hiện ở những từ ngữ đầu tiên như “thoắt”. Đó là cách xử sự bất thường, dứt khoát của Từ Hải. Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng nàn người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhờ đến mục đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp với bản chất của Từ Hải, hơn nữa, Từ Hải nghĩ thực hiện được chí lớn thì mới xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thúy Kiều dành cho mình. Cụm từ “động lòng bốn phương” theo Tản Đà là “động bụng nghĩ đến bốn phương” cho Từ Hải “không phải người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương” (Hoài Thanh). Chính vì thế, chàng hướng về “trời bể mênh mang”, với “thanh gươm yên ngựa” lên đường đi thẳng:
“Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng dong”.
Không gian trời bể mênh mang, con đường thẳng đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng cụm từ “lên đường thẳng rong” nhằm gợi lên dáng vẻ hiên ngang, sẵn sàng lên đường của Từ Hải. Bằng việc sử dụng cảm hứng vũ trụ, các cụm từ mang tính gợi hình, gợi cảm cao, Nguyễn Du đã khắc họa thành công người anh hùng Từ Hải – con người mang trong mình những hoài bão lớn lao, từ đó thể hiên rõ tính cách của nhân vật này.
Mười hai câu thơ tiếp theo là cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải:
“Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng”
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi.”
Khi biết về ý định ra đi lập nghiệp của Từ Hải, Kiều đã không ngần ngại mà bày tỏ mong muốn được đi theo chồng mình, bởi nàng vẫn theo lẽ “phận gái chữ tòng” – bổn phận người vợ phải theo chồng. Dù là một con người với những tư tưởng tiến bộ, Kiều vẫn viện vào lễ giáo phong kiến để thuyết phục Từ Hải cho nàng được làm tròn chữ “tòng” – “xuất giá tòng phu”, thuyết phục Từ Hải đưa mình theo cùng để cùng chồng gánh vác công việc. Tại đây, ta đã biết thêm một đức tính cao đẹp khác của Kiều – tình yêu chồng và sự khâm phục, kính trọng của mình với Từ Hải – biểu tượng đẹp cho người quân tử với biết bao hoài bão lớn lao. Trước mong muốn của nàng, Từ Hải đáp:
“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Từ Hải nhẹ nhàng trách móc Kiều, cho rằng nếu cả hai đã hiểu rõ nhau, đã biết rõ tâm tư tình cảm dành cho nhau, vậy cớ sao nàng vẫn chưa thể thoát khỏi sự ủy mị của một người phụ nữ tầm thường, sao nàng vẫn còn tin vào những lễ giáo phong kiến lạc hậu, cũ kĩ mà không hiểu mình hơn. Lời nói của chàng không chỉ là những lời trách móc nhẹ nhàng mà còn là lời động viên, an ủi Thúy Kiều, nhắc nhở nàng nên thấy tự hào về bản thân khi được đánh giá cao hơn những người phụ nữ khác. Tiếp đó, Từ Hải nêu lên một loạt lí do để khuyên Kiều không theo mình:
“Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia
Bằng nay bốn bể không nhà
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Từ Hải khẳng định chỉ khi nào ước mơ của mình được toại nguyện – có một cơ đồ vững chắc để tỏ rõ mặt phi thường thì chàng mới rước Kiều nghi gia theo cách đường hoàng nhất, long trọng nhất. Điều này không chỉ nêu cao chí khí anh hùng mà cả sự chu đáo, quan tâm sâu sắc của Từ Hải dành cho Kiều. Chàng không muốn vợ mình phải chịu khổ với mình trong những tháng ngày “màn trời chiếu đất”, “bốn bể không nhà” nên càng không muốn đưa Kiều theo cùng. Tóm lại, Từ Hải đã khéo léo sử dụng nhiều lí lẽ nhằm tạo cho Kiều niềm tin, hi vọng để nàng tin tưởng, an tâm chờ đợi ngày mình trở về (“chờ đó ít lâu”), từ đó thống nhất khát vọng phi thường và tình cảm sâu nặng với người mình yêu thương.
Kết thúc đoạn trích là những câu thơ gợi tả về hình ảnh Từ Hải ra đi lập nghiệp:
“Quyết lời dứt áo ra đi
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.”
Dứt lời chia tay nàng Kiều, Từ Hải đã một mạch lên đường, dứt khoát, không chút do dự, không để tình cảm bịn rịn làm lung lạc hay cản bước tiến của người anh hùng. Bởi bây giờ chính là thời điểm chim bằng bay lên cùng gió mây – thời điểm người anh hùng của chúng ta tỏa sáng khí chất giữa muôn trùng sông núi. Một lần nữa, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt điển tích, điển cố nhằm khẳng định quyết tâm và tự tin vào thành công của Từ Hải, đồng thời thể hiện lí tưởng của một người anh hùng khao khát gây dựng nên một sự nghiệp với tầm vóc lớn lao và mang nhiều ý nghĩa.
Xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta không chỉ thấy hình tượng người anh hùng với quyết tâm đấu tranh chống cái ác, cái gian tà để bảo vệ công lí, đem lại hạnh phúc cho nhân dân ở mình Từ Hải mà còn ở nhiều nhân vật khác, tiêu biểu là Ngô Tử Văn trong “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”. Cả hai đều đại diện cho chính nghĩa, cho cái thiện và luôn hết mình chống lại cái xấu, cái ác, thậm chí đặt cả tính mạng bản thân vào nguy hiểm. Họ không để những cám dỗ tầm thường hay tình cảm cá nhân làm lòng họ lung lay trên con đường đầy gian truân này. Qua những hình tượng này, ta hiểu thêm rằng đây không chỉ là sự tạo dựng nhân vật đơn thuần cho mạch truyện, mà còn là sự kết tinh của những ước muốn, khát khao của tác giả lẫn người dân nước Việt – khát khao về ngày họ được sống trong sự tự do, trong hạnh phúc và hòa bình.
Tóm lại, bằng việc kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật, các hình ảnh ước lệ với cảm hứng vũ trụ và tài năng miêu tả tính cách nhân vật của mình, Nguyễn Du đã thể hiện rõ thái độ khẳng định, ngợi ca đối với người anh hùng Từ Hải. Từ Hải không phải là người anh hùng hiện thực mà là hình tượng người anh hùng lãng mạn mang dấu ấn quan niệm của tác giả. Nói cách khác, Nguyễn Du đã gửi gắm những lí tưởng anh hùng của mình vào nhân vật Từ Hải để thầm bộc lộ ước mơ của ông, cũng là của những con người bị áp bức trong xã hội phong kiến xưa. Bên cạnh đó, nhà thơ cũng muốn để lại nhiều bài học đáng quý cho người đời sau thông qua hình tượng nhân vật này – luôn luôn đấu tranh bảo vệ công lí, bảo vệ lẽ phải vì tương lai của bản thân mỗi người, của gia đình và toàn xã hội.
Cảm nhận về nhân vật Từ Hải – Mẫu 5
Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tướng nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau
Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.
Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đâ trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.
Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.
Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).
Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.
Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều – Kim Trọng, Thúy Kiều – Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.
Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu…, mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.
Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.
Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.
Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.
Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.
Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi… tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.
Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.
Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.
Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.
Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải – nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Cảm nhận nhân vật Từ Hải – Mẫu 6
Chí khí anh hùng được trích từ phần thứ hai Gia biến và lưu lạc trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Đây là phần do Nguyễn Du sáng tạo ra không có trong nguyên tác chữ Hán. Đoạn trích đã vẽ lên chân dung người anh hùng Từ Hải vô cùng đẹp đẽ, đồng thời gửi gắm những thông điệp ý nghĩa qua nhân vật này.
Văn bản nói về cuộc chia tay giữa Thúy Kiều và Từ Hải sau nửa năm chung sống mặn nồng. Từ Hải lên đường thể hiện quyết tâm mưu đồ việc lớn của người anh hùng có hùng tâm tráng trí cao cả, lớn lao. Trước đoạn trích này, ngay từ khi Từ Hải xuất hiện, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy hình ảnh người anh hùng ngay từ vẻ đẹp ngoại hình:
Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm thước rộng thân mười thước cao
Hay vẻ đẹp ở phương diện tài năng:
Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài.
Để làm bật vẻ đẹp đó, bốn câu thơ đầu đã vẽ lên hình ảnh người anh hùng với khát khao, hoài bão lớn lao, cao đẹp:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Giữa lúc cuộc sống của Từ Hải và Thúy Kiều đang ở độ đằm thắm, mặn nồng nhất thì Từ Hải quyết định dứt áo lên đường thực hiện nguyện vọng lớn lao. Theo lẽ thường, những người đàn ông sẽ khó có đủ quyết tâm để rời bỏ hạnh phúc riêng tư. Còn Từ Hải lại là một người hoàn toàn khác, mặc dù đang trong giai đoạn hạnh phúc nhất, nhưng sâu thẳm trong trái tim Từ Hải khát khao, hoài bão, nguyện vọng đó vẫn luôn âm ỉ cháy bỏng, chỉ chờ thời cơ thích hợp để thực hiện. Thái độ lên đường của Từ Hải hết sức dứt khoát, hành động “thoắt” cho thấy sự thay đổi nhanh chóng trong con người Từ Hải.
Chỉ cần nghĩ đến những khát khao, hoài bão lớn của đời người là chàng đã muốn lên đường ngay lập tức. Tư thế lên đường “trông vời” đó là cái nhìn thẳng về phía trước, thể hiện một thái độ tự tin, mạnh mẽ của con người có bản lĩnh kiên định, vững vàng. Các từ ngữ Nguyễn Du miêu tả quyết tâm của Từ Hải hết sức đắt giá: “trượng phu”, “động lòng bốn phương”, “trời bể mênh mông” cho thấy một không gian hoạt động rộng lớn, đó là không gian thiên nhiên, vũ trụ để Từ Hải thỏa sức vẫy vùng, thể hiện hùng tâm, tráng trí của mình.
Qua bốn câu thơ đầu Nguyễn Du đã khắc họa hình ảnh của một người anh hùng lí tưởng, phi thường, có ước mơ, có hoài bão cao cả, có chí lớn ôm trọn của trời đất. Nguyễn Du đã rất khéo léo khi xây dựng hình ảnh người anh hùng Từ Hải qua không gian rộng lớn, qua tư thế, hành động mạnh mẽ, dứt khoát. Qua cuộc đối thoại với Thúy Kiều vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải càng được thể hiện rõ nét hơn. Trước hết những lời đối thoại của Từ Hải đã cho thấy tình cảm chàng dành cho Thúy Kiều, chàng ý thức được sự lo lắng, băn khoăn, hiểu được ý định xin được đi theo của nàng Kiều nên đã nói chuyện với nàng để giải tỏa nỗi băn khoăn ấy. Chàng còn khẳng định tình cảm tri ân tri kỷ giữa hai người, rồi trách móc nàng Kiều vẫn chưa thoát khỏi chuyện nữ nhi thường tình:
Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình.
Từ Hải một người có ý chí, quyết tâm, ôm mộng lớn bao trùm thiên hạ bởi vậy vợ chàng, tri âm tri kỷ của chàng cũng phải là người phụ nữ mạnh mẽ, hiểu chuyện, không nên có những thái độ giống như những người phụ nữ bình thường khác. Ngoài ra, để làm Thúy Kiều yên tâm, chàng còn khẳng định, đưa ra lời hứa hẹn:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp trời
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Câu thơ là lời khẳng định tình cảm sâu sắc Từ Hải dành cho Thúy Kiều, đó làm tấm lòng trân trọng, luôn lo lắng cho Thúy Kiều của Từ Hải. Đồng thời Từ Hải cũng phân tích để Thúy Kiều hiểu được việc nàng muốn đi theo là không phù hợp: Bằng nay bốn bể không nhà/ Theo càng thêm bận biết là đi đâu. Để rồi một lần nữa Từ hứa hẹn chắc chắn một năm sau sẽ trở về đón nàng trong vinh quang. Đằng sau những lời nói của Từ Hải ta còn thấy được khát vọng lớn lao của người anh hùng: muốn có một đội quân tinh nhuệ, hùng hậu, đủ sức làm rung chuyển thiên hạ. Bày tỏ mục đích ra đi vì sự nghiệp lớn của mình là để khẳng định bản lĩnh nam nhi. Khát vọng lớn lao của người anh hùng Từ Hải thể hiện qua thái độ dứt khoát, kiên quyết dẹp bỏ tình riêng hết lòng vì sự nghiệp lớn.
Khát vọng lớn lao của Từ Hải còn được thể hiện ở lời khẳng định chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi sẽ hoàn thành sự nghiệp lớn để trở về. Đối với một người nam nhi làm sự nghiệp lớn, gây dựng cơ đồ chỉ trong một năm quả là quá ngắn ngủi. Qua lớn khẳng định đó cho thấy sự bản lĩnh, tự tin của Từ Hải vào tài năng của mình. Thông qua lời đối thoại với Thúy Kiều đã khắc họa rõ nét, chân thực những khát vọng lớn lao, cao cả, mạnh mẽ và cả tình yêu tha thiết Từ Hải dành cho Thúy Kiều.
Hai câu thơ cuối thể hiện quyết tâm của Từ Hải: Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi. Các từ quyết, dứt, ra đi cho thấy hành động mạnh mẽ, dứt khoát, kiên quyết của Từ Hải. Hình ảnh cánh chim bằng cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn được Nguyễn Du sử dụng để nói lên lý tưởng, khát vọng, hoài bão cao đẹp của người anh hùng.
Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công người anh hùng Từ Hải mang trong mình khát khao lớn lao, được vùng vẫy trong bốn biển. Đồng thời hình ảnh Từ Hải cũng gửi gắm niềm tin về công lý, về sự nghiệp của Nguyễn Du.
Bên cạnh bài văn mẫu cảm nhận nhân vật Từ Hải các bạn xem thêm bài phân tích nhân vật Từ Hải, phân tích bài thơ Chí khí anh hùng và rất nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 10.
Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết Văn mẫu lớp 10: Cảm nhận về nhân vật Từ Hải trong đoạn trích Chí khí anh hùng Dàn ý & 6 bài văn mẫu cảm nhận Từ Hải của Neu-edutop.edu.vn nếu thấy bài viết này hữu ích đừng quên để lại bình luận và đánh giá giới thiệu website với mọi người nhé. Chân thành cảm ơn.